Bắn pháo hoa trong đêm Giao thừa là dịp để các tỉnh, thành phố thu hút du khách trong những ngày đầu Xuân Giáp Thìn 2024.
Bắn pháo hoa trong đêm Giao thừa là dịp để các tỉnh, thành phố thu hút du khách trong những ngày đầu Xuân Giáp Thìn 2024.
# Nhập khẩu và phân phối chính hãng 100%
# Hoàn tiền 500% nếu phát hiện hàng giả
# Freeship toàn quốc với hóa đơn > 250K
# Hàng nhập mới, date cam kết mới nhất
(TN&MT) - Cứ tưởng du lịch là một ngành khai thác kinh tế sạch nhất, nên trước đây nó từng được gọi là “nền công nghiệp không khói”. Tuy nhiên, càng lúc các quốc gia mạnh về du lịch càng thấy rằng, không nên gán cho ngành du lịch cái tên “thánh” ấy khi ngành này phát triển rộng hơn nhờ thế giới tối đa và tối ưu hóa phương tiện chuyên chở, nhà hàng khách sạn và đa dạng hóa các điểm tham quan dã ngoại…
Khái niệm du lịch “bền vững”, “có trách nhiệm”, du lịch “sạch” xuất phát từ đó và trở thành một lời kêu gọi thống thiết từ những nhà quản lý, công ty cũng như khách du lịch có ý thức bảo vệ môi trường, bảo đảm an toàn môi sinh cho chính cộng đồng con người và sinh vật ngay trên khu vực khai thác du lịch.
Du lịch Việt Nam dồi dào tiềm năng
Thật ra, chưa ai tính được tốn kém chi phí làm sạch lại môi trường và tái tạo môi sinh trong một vùng du lịch đã được khai thác bằng những con số kế toán cụ thể. Nhưng điều rõ ràng là một địa điểm du lịch quá dơ bẩn và mất vệ sinh như vung vãi bao nylon, các túi chai đựng thực phẩm và kể cả thức ăn thừa… thường khó thu hút lại khách tham quan.
Không như các ngành công nghiệp khai khoáng hay các công trình thủy điện có thể khoanh vùng khu vực ảnh hưởng từ khởi công đến khi vào vận hành, ngành du lịch ngày nay đang chịu sức ép khai thác kinh tế trên diện rộng mà nguồn thu nhập của ngành lại chính là tiền bạc từ trong túi của đối tượng khai thác là khách du lịch.
Và cũng để lại muôn vàn hệ lụy, một trong số đó là rác thải
Chính vì vậy, nếu không ràng buộc trách nhiệm của “thượng đế”, nếu như công ty khai thác du lịch chỉ chạy theo đồng tiền và lợi nhuận… thì không mấy chốc, các khu du lịch, những danh lam đẹp như mơ trở thành các núi rác, có nguy cơ là ổ dịch bệnh cho dân cư trong vùng.
Phát triển du lịch bằng mọi giá hay chỉ tính trên cơ số kim ngạch để đạt kế hoạch kinh doanh của ngành du lịch của một nước hay một vùng nào đó mà không cân nhắc, cân đối giữa rủi ro gặp phải và yếu tố bù đắp, hệ quả để lại sẽ là Nhà nước và nhân dân gánh chịu.
Thật ra, khối lượng tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên của ngành du lịch là vô bờ bến chứ không như điều trước đây thường được nghe nói “ngành công nghiệp không khói” với hàm ý là ngành khai thác kiếm tiền không bụi bẩn, không đốt rừng phá núi… như nhiều người lầm tưởng.
Ai bảo rằng du lịch không xả khói. Trong ảnh là cảnh ùn tắc giao thông tại thành phố biển Vũng Tàu
Một cơ quan quản lý du lịch Pháp đã đưa ra các con số “tiêu hao” cho các hoạt động khai thác du lịch. Rất bất ngờ vì chúng không hề thua kém các ngành công nghiệp “có khói” khác.
Khối lượng tiêu thụ nước ngọt cho từng hành khách, tắm rửa, ăn uống, nước sử dụng cho các hồ tắm, tưới cỏ các sân golf có thể đạt tới hơn 400 lít/ngày/đầu người.
Chưa kể, để thỏa mãn các hoạt động du lịch có liên quan, ngành du lịch, các nhà tổ chức tour đã ít nhiều có những can thiệp tới lĩnh vực địa chất, khoáng sản, nhiên liệu hóa thạch, đất, rừng, đất ngập nước, động vật hoang dã và cảnh quan… Hệ quả là mất rừng, gây nên hiện tượng xói mòn đất, lũ quét, sạt lở đất...
Tuy có tiếng là loại hình công nghiệp không khói, nhưng ngành du lịch phải sử dụng các phương tiện vận chuyển, xả thải gồm khói (máy bay), nước (tàu thủy), các chất rắn và lỏng, các sản phẩm thuộc dầu và dư lượng hóa chất còn quá hơn các ngành “có khói”. Ước tính một tàu thủy du lịch xuyên đại dương xả chừng 7.000 tấn chất thải mỗi năm.
Và nếu như có bao nhiêu phần trăm lượng hành khách đi máy bay là người đi du lịch, thì khói thải của ngành hàng không cũng nên được chia công bằng cho ngành du lịch. Đó là chưa nói đến sự hao mòn các vùng ngập mặn, các rạn san hô, các bãi biển nhường dần cho những công trình đô thị phục vụ du lịch…
Vì vậy, nếu như các doanh nghiệp không tham gia vào các chương trình du lịch bền vững một cách chủ động và kịp thời, chính họ sẽ làm nghèo và xấu đi vùng khai thác du lịch, mà hệ quả là đẩy nhanh quá trình làm “tái nghèo” nơi đã từng làm giàu cho chính họ.
“Thủy tổ” của pháo sáng sơ khai chính là những loại pháo bông, pháo hoa truyền thống được người dân Trung Quốc dùng trong các dịp lễ hội từ thế kỷ 13.
Bà Martha Coston (1826-1904) được coi là người phát minh ra pháo sáng. Bà đã tiếp tục công việc của chồng mình, ông Benjamin Coston, từng là Giám đốc Trung tâm thí nghiệm khoa học thuộc Hải quân Mỹ, đột ngột qua đời khi đang phát triển một loại vũ khí dạng pháo hiệu. Đến năm 1859, bà được cấp bằng sáng chế cho “Thiết bị pháo bắn tín hiệu ban đêm”, tức pháo sáng.
Pháo sáng bắt đầu được dùng trong quân sự từ Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Tác dụng được sử dụng nhiều nhất của pháo sáng vẫn là mục đích phát sáng. Các loại pháo sáng quân dụng tùy từng loại sẽ có thời gian phát sáng khác nhau, nhưng có thể lên tới cả chục phút nếu được trang bị thêm dù rơi chậm.
Trung bình, một quả pháo sáng có thể cung cấp ánh sáng bao phủ một khu vực rộng một vài kilomet vuông. Đây là một thứ vũ khí rất hữu hiệu trong tác chiến chống đối phương lợi dụng đêm tối tiếp cận, áp sát mục tiêu. Với các loại súng phóng lựu cỡ 40mm, binh sĩ có thể phóng pháo sáng một cách dễ dàng.
Ngoài thắp sáng, pháo sáng còn đóng vai trò làm pháo hiệu. Những quả pháo sáng với lửa và khói có nhiều màu khác nhau sẽ được sử dụng như một cách thông báo, truyền tin giữa các lực lượng trên chiến trường. Ví dụ, quân đội Mỹ thường sử dụng pháo hiệu màu đỏ để đánh dấu vị trí sau đó gọi không kích.
Có một lo ngại khi sử dụng pháo hiệu để đánh dấu cho trực thăng là pháo hiệu sẽ tạo ra rất nhiều khói khiến phi công gặp khó khăn trong việc điều khiển máy bay đáp xuống. Tuy nhiên, thực tế là khi trực thăng áp sát mặt đất, gió từ cánh quạt sẽ thổi bay hoàn toàn khói từ quả pháo hiệu nên phi công sẽ hoàn toàn không gặp bất cứ trở ngại nào.
Trong nhiệm vụ nhảy dù đột nhập, binh sĩ cũng sử dụng pháo hiệu gắn ở giày để đánh dấu đường đi của mình cho đồng đội biết, tránh tình trạng rơi lạc quá xa nhau. Khi một người đáp ở vị trí không mong muốn, vệt màu từ quả pháo hiệu sẽ cho đồng đội anh ta biết rằng anh ta đã rơi lệch về hướng nào để dễ bề tìm lại nhau.
Bên cạnh đó, một tác dụng khác của pháo sáng đó là sử dụng làm mồi bẫy. Đây là một tác dụng rất quan trọng, đóng vai trò đáng kể trong tổng thể khả năng phòng thủ tên lửa của máy bay cánh bằng cũng như trực thăng.
Mỗi máy bay sẽ được trang bị nhiều hộp chứa đạn pháo sáng. Khi phát hiện tên lửa tầm nhiệt của đối phương, pháo sáng sẽ được phóng ra. Tên lửa tầm nhiệt tự động lần theo nguồn phát nhiệt, thường là động cơ của máy bay. Pháo sáng mồi bẫy phát ra nhiệt lượng lớn làm cảm biến hồng ngoại trên đầu dò tên lửa bị đánh lừa và lao tới, giúp máy bay thoát hiểm. PHẠM HUY (theo Air Force Technology)
Mỗi máy bay sẽ được trang bị nhiều hộp chứa đạn pháo sáng. Khi phát hiện tên lửa tầm nhiệt của đối phương, pháo sáng sẽ được phóng ra. Tên lửa tầm nhiệt tự động lần theo nguồn phát nhiệt, thường là động cơ của máy bay. Pháo sáng mồi bẫy phát ra nhiệt lượng lớn làm cảm biến hồng ngoại trên đầu dò tên lửa bị đánh lừa và lao tới, giúp máy bay thoát hiểm.
PHẠM HUY (theo Air Force Technology)
Cứ tưởng du lịch là một ngành khai thác kinh tế sạch nhất, nên trước đây nó từng được gọi là “nền công nghiệp không khói”.
Càng lúc các quốc gia mạnh về du lịch càng thấy rằng, ngành du lịch sẽ không xứng đáng được mang cái “tên thánh” ấy khi ngành này phát triển rộng hơn nhờ thế giới tối đa và tối ưu hóa phương tiện chuyên chở, nhà hàng khách sạn và đa dạng hóa các điểm tham quan dã ngoại v.v...
Khái niệm du lịch “bền vững”, “có trách nhiệm”, du lịch “sạch” xuất phát từ đó và trở thành một lời kêu gọi thống thiết từ những nhà quản lý, công ty cũng như khách du lịch có ý thức bảo vệ môi trường, bảo đảm an toàn môi sinh cho chính cộng đồng con người và sinh vật ngay trên khu vực khai thác du lịch.
Thật ra, chưa ai tính được tốn kém chi phí làm sạch lại môi trường và tái tạo môi sinh trong một vùng du lịch đã được khai thác bằng những con số kế toán cụ thể. Nhưng điều rõ ràng là một địa điểm du lịch quá dơ bẩn và mất vệ sinh như vung vãi bao nylon, các túi chai đựng thực phẩm và kể cả thức ăn thừa... thường khó thu hút lại khách tham quan.
Không như các ngành công nghiệp khai khoáng hay các công trình thủy điện, khu vực ảnh hưởng của chúng lúc hoạt động khá hạn hẹp ngay từ lúc khởi công đến khi vào vận hành, ngành du lịch ngày nay đang chịu sức ép khai thác kinh tế trên diện rộng mà nguồn thu nhập của ngành lại chính là tiền bạc từ trong túi của đối tượng khai thác là khách du lịch.
Chính vì vậy, nếu không bền bỉ kêu gọi “thượng đế” để mong được sự thông cảm và hỗ trợ của họ, và nếu như gặp phải sự vô tâm, vô cảm của chính công ty khai thác mà chỉ chạy theo đồng tiền và lợi nhuận... thì không mấy chốc các khu du lịch, những danh lam đẹp như mơ trở thành các núi rác, lại là ổ dịch bệnh cho dân cư trong vùng.
Phát triển du lịch bằng mọi giá hay chỉ tính trên cơ số kim ngạch để đạt kế hoạch kinh doanh của ngành du lịch của một nước hay một vùng nào đó mà không cân nhắc, cân đối giữa rủi ro gặp phải và yếu tố bù đắp, đôi khi dân chúng phải vì bát cơm mà mua chén thuốc.
Thật ra, khối lượng tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên của ngành du lịch là vô bờ bến chứ không như điều trước đây thường được nghe nói “ngành công nghiệp không khói” với hàm ý là ngành khai thác kiếm tiền không bụi bẩn, không đốt rừng phá núi... như nhiều người lầm tưởng.
Một cơ quan quản lý du lịch Pháp đưa ra các con số “tiêu hao” cho các hoạt động khai thác du lịch. Rất bất ngờ vì chúng không hề thua kém các ngành công nghiệp “có khói” khác.
Khối lượng tiêu thụ nước ngọt cho từng hành khách, tắm rửa, ăn uống, nước sử dụng cho các hồ tắm, tưới cỏ các sân golf được tính là 440 lít/ngày/đầu người.
Để thỏa mãn các hoạt động du lịch có liên quan, các nhà tổ chức tour phải động chân động tay để khai thác khoáng sản, nhiên liệu hóa thạch, đất, rừng, đất ngập nước, động vật hoang dã và cảnh quan... Hệ quả là phải phá rừng vô tôi vạ, gây nên hiện tượng xói mòn đất, lũ quét, đất chuồi... Nếu được quy ra thành chất đốt, củi sinh hoạt phải tốn đến 4-5 kg củi đốt nấu nướng và sưởi ấm/ngày/khách dã ngoại.
Tuy có tiếng là loại hình công nghiệp không khói, ngành du lịch phải sử dụng các phương tiện vận chuyển, xả thải gồm khói (máy bay), nước (tàu thủy), các chất rắn và lỏng, các sản phẩm thuộc dầu và dư lượng hóa chất còn quá hơn các ngành “có khói”. Giả sử như một tàu thủy du lịch xuyên đại dương xả chừng 7.000 tấn chất thải mỗi năm.
Nếu như tính 60% lượng hành khách đi máy bay là người đi du lịch, thì khói thải của ngành hàng không cũng nên được chia công bằng cho ngành du lịch. Đó là chưa nói đến sự hao mòn, tàn phá các vùng ngập mặn, các rạn san hô, các bãi biển nhường dần cho những công trình đô thị phục vụ du lịch...
Chỉ trừ một số công ty “ăn xổi ở thì”, nếu như các doanh nghiệp không tham gia vào các chương trình du lịch bền vững một cách chủ động và kịp thời, thì chính họ sẽ làm nghèo và xấu đi vùng khai thác du lịch, mà hệ quả là đẩy nhanh quá trình làm “tái nghèo” nơi đã từng hy sinh làm “con bò sữa” cho mình mà có khi doanh nghiệp du lịch phải dẹp tiệm vì khách sẽ không muốn lai vãng, mua tour của công ty “vô trách nhiệm” ấy nữa.
Giao thừa - khoảnh khắc tiễn đưa năm cũ, chào đón Năm Mới từ bao đời nay đã in sâu trong tâm thức mỗi người dân đất Việt bởi sự linh thiêng và ý nghĩa.
Thời điểm chuyển giao giữa năm Quý Mão và Giáp Thìn, những chùm pháo hoa lung linh, đa sắc màu sẽ rực sáng trên bầu trời Việt Nam, gửi gắm khát vọng về một năm mới hòa bình, phát triển và thịnh vượng.
Đón Xuân Giáp Thìn 2024, các địa phương đều lựa chọn địa điểm bắn pháo hoa ở những vị trí phù hợp, thuận tiện cho người dân và du khách thưởng lãm. Kinh phí thực hiện bắn pháo hoa chủ yếu từ nguồn xã hội hóa.