Trung Tâm Tiếng Anh Đại Cồ Việt

Trung Tâm Tiếng Anh Đại Cồ Việt

Thương hiệu giáo dục Anh ngữ hàng đầu đến từ Anh Quốc với hơn 45 năm danh tiếng quốc tế và hơn 25 năm kinh nghiệm tại Việt Nam.

Thương hiệu giáo dục Anh ngữ hàng đầu đến từ Anh Quốc với hơn 45 năm danh tiếng quốc tế và hơn 25 năm kinh nghiệm tại Việt Nam.

KHẢO VỀ “ĐẠI CỒ VIỆT” ( NƯỚC VIỆT – NƯỚC PHẬT GIÁO)

Quốc hiệu Đại Cồ Việt 大瞿越 do vua Đinh Tiên Hoàng đặt năm 968 (SCN). Đại Cồ Việt là quốc hiệu đầu tiên, được dùng trong 8 đời vua của 3 triều Đinh, Tiền Lê, Lý, với quãng thời gian dài 86 năm (từ 968 – 1054). Tức là mãi đến năm Giáp Ngọ, niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo thứ 6 (1054), vua Lý Thái Tông mới đặt lại quốc hiệu là Đại Việt(1). Nội dung của ba chữ “Đại Cồ Việt” đã được một số học giả quan tâm nghiên cứu. Sở dĩ, nó được chú ý đến như vậy bởi lẽ đây là quốc hiệu chính thức đầu tiên của người Việt sau khi đánh đuổi người phương Bắc, kết thúc giai đoạn một ngàn năm mà cương vực của người Việt chịu sự cai quản của thiên triều. Quốc hiệu Đại Cồ Việt đương nhiên chứa trong đó tư tưởng chính trị và xu hướng tôn giáo của người cầm quyền, tuy nhiên trước nay đây vẫn luôn là một bài toán khó giải. Rất nhiều ý kiến đã đưa ra, nhưng vẫn chỉ được coi như là những giả thuyết. Giả thuyết được đồng thuận nhiều nhất được một số học giả hàng đầu của thế kỷ XX đưa ra, giả thuyết này coi CỒ (lớn) là một từ Việt cổ. Bài viết này viết ra với mục đích tổng thuật, đánh giá về các giả thuyết trước đây, cũng như khảo luận về quốc hiệu đầu tiên này, từ đó đưa ra cách nhận định riêng trên cơ sở những thành quả của các ngành lịch sử, tôn giáo (Phật học), văn bản học, văn tự học v.v.

I. Giả thuyết coi CỒ là từ Việt cổ

Những học giả như Sở Cuồng Lê Dư (1932)(2), Bửu Cầm (1960)(3), Thúc Ngọc Trần Văn Giáp (1969)(4), Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm (1971)(5), Lê Văn Quán (1981, 1982, 2007)(6), Trần Quốc Vượng (1960, 2000)(7)v.v…đều cho rằng chữ “瞿”, âm Hán – Việt đọc là “cù”, thực tế thường được đọc là CỒ nghĩa là “to, lớn”. Năm 1975,Đào Duy Anh viết như sau: “Cồ nghĩa là lớn: mến đức cồ, kinh bùi ngọt. Trong Sử ký thấy dùng từ CỒ trong tên nước ở thời nhà Đinh là Đại Cồ Việt. Ngày nay ta cũng còn thấy dùng chữ kép đại cồ lồ. Song từ Quốc âm thi tập về sau thì không thấy từ cồ được dùng riêng”(8). Sở dĩ ông coi CỒ là một từ cổ vì ông tra được chữ này trong từ điển của Alexandre de Rhodes (1651), P. P. de Béhaine (1772 – 1773) , L. J. Taberd (1838), Huỳnh Tịnh Paulus Của (1895), J.F.M. Génibrel (1898), G.Hue (1937). Nhưng từ này không phải là từ cổ mà vẫn đang hiện dụng trong tiếng Việt hiện nay. Thực tế, trong suốt lịch sử tiếng Việt, từ tố Cồ chưa từng đứng độc lập làm thành phần trong câu. Giai đoạn cổ – trung đại, tiếng Việt đã có từ CẢ, CÁI để trỏ nghĩa “lớn”, đến giờ là từ LỚN, BỰ, TO. Từ CỒ trong suốt lịch sử, chỉ làm một từ tố trong các từ song tiết như gà cồ, vịt cồ, cồ cộ mà thôi. Sắc thái của nó không chỉ có nghĩa là “to” mà đôi khi còn có nghĩa là “ngố, ngờ nghệch.” như câu: lóng ngóng như gà cồ/ tồ, Nữ kê tác quái –gà mái đá gà cồ. “Gà cồ” còn có nghĩa là gà đực, gà chọi, như gà cồ sớt chó sói… Đồng dao có câu: Sáo đen là em gà cồ. Gà cồ là cô sáo sậu. Sáo sậu là cậu chim ri…; Vè nói ngược có câu: …lên non đặt lờ/ xuống sông bửa củi/ gà cồ hay ủi/ heo nái hay bươi… Tục ngữ còn có câu: gà cồ ăn quẩn cối xay (tk XIX), nay chuyển sang nói gà què ăn quẩn cối xay, lại có câu ca dao: Gà cồ lẩn quẩn cối xay/ Ai cho muối ớt xé phay gà cồ. Câu đố dân gian có câu: Vân Tiên cõng mẹ chạy ra, đụng phải gà cồ cõng mẹ chạy vô…Từ tố CỒ hiện vẫn đang còn dùng trong một số địa phương. Ví dụ: vùng Sơn Tây, gọi anh nào to cao ngồ ngộ gọi là CỒ, như Thắng Cồ. Hay gọi loài ve sầu to và đen hơn loại ve sầu thường là con “cồ cộ”. Chữ “cồ cộ” ở một số nơi khác còn để chỉ loại châu chấu cỡ lớn. Xin xem các từ điển từ xưa đến nay(9). Có thể đi đến nhận định, chữ CỒ là một từ tố không có khả năng đứng độc lập, vì phải nhường chỗ cho các từ đồng nghĩa khác; quan trọng nhất, nó chỉ chuyên dùng cho các đối tượng là động vật mà thôi. Cho nên, khó có khả năng kết hợp là “đức cồ” được (TTD nhấn mạnh). Việc coi CỒ trong ĐẠI CỒ VIỆT như một từ cổ là kết luận được hình thành từ cảm thức tiếng Việt hiện đại thông qua tra cứu các từ điển cổ mà thôi.

Về mặt cấu trúc của ngữ danh từ, đây là một cấu trúc của Hán văn. Trong đó, trung tâm ngữ là từ “Việt” đứng ở sau cùng, hai từ “đại” và “cồ” đứng trước để tu sức cho “Việt”. Cấu trúc này có lẽ không phải bàn luận nhiều. Nếu theo giả thuyết CỒ là một chữ Nôm, thì cấu trúc này sẽ có trật tự khá bất ổn như sau: [từ Hán (đại) + từ Nôm (cồ: lớn) + từ Hán]. Mối quan hệ giữa “đại” và “cồ” là mối quan hệ đẳng lập, nhưng “cồ” lại là yếu tố chức năng để chua nghĩa cho “đại”. Điểm bất ổn ở chỗ, cố gắng chua nghĩa cho một từ quá đơn giản. Cho nên, nói như học giả An Chi: “Đối với chữ Cồ trong Đại Cồ Việt mà nói rằng đây là một yếu tố Nôm có nghĩa là “to, lớn” thì thật chẳng còn gì nhẹ dạ cho bằng. Với cách hiểu quá đỗi hời hợt này, người ta đã gây ra trong 3 tiếng Đại Cồ Việt một cái lỗi quá thô thiển về trùng ngôn (pleonasm): đã “đại” mà lại còn “cồ”. Chẳng những thế, cách hiểu rất ít chiều sâu đó còn biến ba tiếng Đại Cồ Việt thành một thứ ngôn ngữ “ba rọi” (vừa Tàu vừa ta) không thể chấp nhận được cho một quốc hiệu nghiêm túc và đáng kính trọng v.v…”(10) Hiện tượng từ Nôm được dùng như là một thành phần của một ngữ danh từ tiếng Hán không phải là không có. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Trang thì trong số 4000 vị thần thì có khoảng 10% tên các vị có yếu tố Nôm, như Bến Nước Đại vương, Cửa Ngòi Công chúa, Đống Đá Hiển ứng Chiêu cảm Đại vương(11) v.v… Có thể thấy yếu tố Nôm ở đây chỉ là danh từ riêng, và cấu trúc của các ngữ này chỉ là [từ Nôm + từ Hán]. Giả thuyết coi CỒ chua nghĩa cho ĐẠI là bất ổn cả về ngữ nghĩa lẫn cấu trúc.

2.2. Hệ quả của giả thuyết coi CỒ là một từ Việt cổ. Dựa trên giả thuyết coi CỒ là chữ Nôm để ghi từ Việt cổ của các học giả vừa nêu, năm 1984, Keith Weller Taylor đi đến nhận xét rằng: “đại cồ” là một dạng ghép “phản ánh sự phát triển sáng tạo của ngôn ngữ bản địa khi nó được sử dụng cho vấn đề chính trị”(12) trong giai đoạn tự chủ mới.

Năm 1992, nhà nghiên cứu văn tự học Trung Quốc, La Trường Sơn cũng viết: “năm 968, triều Đinh bắt đầu kiến lập nhà nước phong kiến tự chủ, chữ CỒ trong quốc hiệu lại là một chữ Nôm, nhưng ý nghĩa của chữ Nôm này vốn đã nằm trong nghĩa của chữ “đại” rồi. Đó là dấu vết chữ Nôm xuất hiện đầu tiên trong thế kỷ X”(13).

Theo chúng tôi, đây là giả thuyết thuần túy văn tự theo chiều hướng có lợi cho dân tộc của các nhà Nôm học trong thế kỷ XX, từ đó dẫn đến những ý kiến đồng thuận của các nhà sử học trong nước và các nhà nghiên cứu nước ngoài (những người phi bản địa). CỒ được coi là một từ Nôm để chứng minh ba điểm:

1. Chữ Nôm đã ra đời từ thế kỷ X;

2. Khẳng định quyền độc lập tự chủ của dân tộc thông qua sự tự ý thức của người cầm quyền về ngôn ngữ dân tộc.

3. Độc lập dân tộc là kế thừa truyền thống tộc Việt từ thời Hùng Vương, Âu Lạc, Lạc Việt, với những thành tựu văn hóa như nỏ thần kim quy!

Một giả thuyết khoa học đứng trên rung động tình cảm dân tộc là một điều có thể hiểu được vào một số thập kỷ của thế kỷ trước (thế kỉ XX) khi hoàn cảnh lịch sử của đất nước còn chưa được ổn định. Nhưng, kể cả chữ CỒ là một từ Nôm đi chăng nữa thì cũng không thể khẳng định rằng chữ Nôm đã ra đời với tư cách là một hệ thống văn tự dùng để ghi một chuỗi ngôn từ thuần Việt(14).

2.3. Chữ CỒ từ bối cảnh văn hóa thời đại. Thêm nữa, qua các tài liệu lịch sử, thì ba đời vua (13 năm) nhà Đinh chưa có ý thức về “ngôn ngữ bản địa”. Đinh Bộ Lĩnh tự xưng là Vạn Thắng Vương 萬聖王(15). Quần thần tôn là Đại Thắng Minh Hoàng đế 大勝明皇帝(đế hiệu thuần Hán)(16). Rồi ngay sau khi lên cầm quyền, vua Đinh phong cho con là Đinh Liễn tước là Nam Việt Vương 南越王(17), rồi sai Đinh Liễn đi sứ để triều cống và xin sự công nhận của thiên triều. Nhà Tống mới lập, còn bận nhiều việc chưa đem quân đến chinh phạt, nên năm 973 Tống Thái Tổ bèn ban bài chế công nhận Đinh Bộ Lĩnh làm Giao Chỉ Quận vương, Đinh Liễn làm Kiểm hiệu Thái sư,Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ檢校太師靜海軍節度使(18). Năm 970, đổi niên hiệu là Thái Bình太平. Đến niên hiệu Thái Bình thứ 3, vua phong Đinh Tuệ là Vệ Vương衛王, lập con thứ là Hạng Lang làm Thái tử太子(19).

Như thế, có thể thấy rằng, vào giai đoạn đầu độc lập tự chủ, triều đại đầu tiên của Việt Nam luôn ý thức được rằng, phải mềm mỏng trong vấn đề ngoại giao. Trong nước vẫn có thể có quốc hiệu, vua vẫn tự xưng đế hiệu của mình. Nhưng một mặt, vẫn phải nhún nhường xin nhà Tống công nhận mình là nước phiên thuộc, hàng năm vẫn phải cống sứ đầy đủ. Và muốn được Bắc quốc công nhận, các nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý cũng phải cố gắng chứng tỏ mình là một nước thuộc về văn hóa ngôn ngữ của Trung Hoa, phải cố gắng chứng tỏ mình đã được “giáo hóa”, là nước có “văn hiến” (xét theo nghĩa gốc của từ này, như Nguyễn Trãi sau đó gần 500 năm cũng đã viết trong Bình Ngô đại cáo). Biểu hiện quan trọng nhất của việc có văn hiến là xác định hệ thống văn tự quan phương (văn) và chủ thể sử dụng thứ văn tự đó (hiến), rồi sau đó mới đến thiết lập triều nghi, dùng hình pháp (pháp trị), đóng đô, xây cung điện để làm chỗ thiết triều, xắp đặt bách quan, lập ngôi hoàng hậu, phong vương phong tước, dựng đàn Xã Tắc làm nơi tế tự của triều đình quốc gia (quốc tế, tự điển) v.v… Quan trọng không kém là đặt quốc hiệu. Vì thế, tên nước Đại Cồ Việt là thuần Hán thì thiên triều mới chấp nhận được. Và cũng chỉ có thuần là nghĩa Hán thì nó mới “đồng bộ” với các tên quan chức theo mô hình của Hán như Đô hộ phủ, Thập đạo Tướng quân, Đinh quốc công v.v… Đinh triều hẳn là triều đình lấy Hán văn làm ngôn ngữ hành chính và ngoại giao. Bài từ tiếp sứ Vương lang quy của Ngô Chân Lưu sau này cũng là bài thơ chữ Hán vậy.

Nếu không dùng chữ Hán, cái nhà nước vừa mới hình thành sau cả ngàn năm thuộc Bắc, cái nhà nước mới được hưởng chút ít “thái bình” sau cái loạn 12 sứ quân kia lại bị liệt vào danh sách những nước “mọi rợ” (không có chữ viết) thì sẽ sớm phải chịu cảnh “khai hóa” của nước lớn. Đọc lời chế của Tống Thái Tổ có thể thấy rõ điều này: “Bộ Lĩnh […], giữ tiết làm tôi hướng theo phương Bắc, […], có chí mến văn hóa của Trung Quốc, thường nghĩ đến việc nội phụ, […], qua lại cống hiến lễ vật. Nay có có lời khen ngợi đã sai con đến xin làm phiên thuộc, vậy phong cho cha làm quận vương v.v…”(20) Cho nên, lập luận cho “Đinh Tiên Hoàng dùng lại chữ “Việt” là tìm về cội nguồn Lạc Việt (tổ tiên của dân tộc Việt chúng ta), lại thêm chữ CỒ (tiếng Việt) để muốn giương cao nước Cồ Việt là một nước rộng và có nền văn hóa “lớn” thuần Việt (phi Hoa phi Ấn)”(21) là có phần chủ quan, tiền định.

Đến đây, chúng tôi có khuynh hướng nghiêng về phía các học giả cho rằng, quốc hiệu “Đại Cồ Việt” vẫn là tên thuần Hán. Điều đó có nghĩa là, chữ “瞿” không phải là chữ Nôm dùng để ghi âm CỒ của tiếng Việt cổ trong một ngữ danh từ theo trật tự cấu trúc của tiếng Hán(22).

II. Giả thuyết coi [Đại + Cồ] là một chữ Nôm

Gần đây, tác giả bài viếtQuốc hiệu nước ta trong lịch sử: “Đại Cồ Việt” hay “Cồ Việt”?(23) – Nguyễn Anh Huy đã đưa ra một giả thuyết thú vị, giải thích về ba chữ “Đại Cồ Việt”. Giả thuyết này của tác giả được hình thành trên một tín niệm của rất nhiều học giả hàng đầu của thế kỷ XX, coi CỒ (lớn) là một từ Việt cổ như bài viết đã nêu ở trên. Ông đưa ra bốn bước lập luận như sau:

1. “Đại Cồ” là từ thừa nghĩa, thừa chữ. Vì “đại” tiếng Hán là lớn; và CỒ tiếng Việt cổ cũng nghĩa là lớn(24). Chính sự dư thừa một cách vô lý như vậy đã khiến cho đa số người đời sau không thể hiểu được ý nghĩa của danh từ này.

2. Ông cho rằng: ở đây có một sự nhầm lẫn về văn bản học của các nhà sử học thời trung đại. Đại Việt sử ký toàn thư (từ đây viết tắt là ĐVSKTT) – văn bản chính sử đầu tiên có ghi nhận quốc hiệu này lại “không phải là chữ viết gốc thời Đinh Tiên Hoàng mà đã “tam sao thất bản” nhiều lần qua các bản chép tay của Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, sử thần triều Lê v.v… Nhưng lần “thất bản” lớn nhất, theo tôi, là chuyển từ bản chép tay sang khắc mộc bản (sic) để in sách từ thời Lê Chính Hòa năm 1697.”(25) Từ việc nghi ngờ đối với văn bản như vậy, tác giả đã đi đến giả thuyết cho rằng “Đại Cồ Việt” là một chữ có vấn đề về mặt tự dạng.

3. Ông cho rằng “đại cù” trong ĐVSKTT là một chữ Nôm hài thanh “cồ��”. Do các văn bản cổ viết theo hàng dọc, nên chữ Nôm “cồ ��” rất dễ đọc nhầm thành hai chữ “đại” và “cù”.

4. Cứ liệu thành văn mà ông đưa ra để củng cố thêm cho giả thuyết của mình đó là đôi câu đối trong đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng tại cố đô Hoa Lư, trong đó chỉ ghi quốc hiệu là CỒ VIỆT.

Giả thuyết cho hai chữ [đại + cồ] là một chữ Nôm hình thanh để ghi 1 từ Việt là CỒ (nghĩa là lớn) là giả thuyết thú vị. Nhưng, nếu đã nêu cao “tinh thần dân tộc” thì phải chăng nên đặt theo cấu trúc của ta là “Việt Cồ”? Mặt khác, các nhà khảo cổ và Nôm học chưa từng tìm thấy một chữ Nôm hình thanh nào vào thế kỷ X để làm tiền lệ hay đối chiếu(26).

Trước tiên, bài viết muốn thảo luận lại về văn bản này. Đó là câu đối ở đền vua Đinh Tiên Hoàng tại Hoa Lư. Nguyên văn như sau瞿越國當宋開寶、華藘都是漢長安(Cồ Việt Quốc đương Tống Khai Bảo/ Hoa Lư đô thị Hán Trường An) nghĩa là “nước Cồ Việt tương đương với niên hiệu Khai Bảo đời Tống/ Kinh đô Hoa Lư cũng như là Trường An đời Hán”. Ngoài ra, ở Hoa Lư cũng còn có một câu đối nữa có xuất hiện chữ “Cồ Việt” với nội dung như sau: 萬勝威雄,瞿越基開正統始/ 天書分定,華藘運啟聖人生(Vạn Thắng uy hùng, Cồ Việt cơ khai chính thống thủy/ Thiên thư phân định, Hoa Lư vận khải thánh nhân sinh) nghĩa là “Vạn Thắng Vương oai hùng, Cồ Việt nền xây, (triều đại) chính thống (từ đây) bắt đầu/ Thiên thư phân định, Hoa Lư vận mở, thánh nhân xuất hiện”. Tuy nhiên, niên đại của hai đôi câu đối này là khá muộn. Đôi đầu được viết vào năm Giáp Tý thời Tự Đức (1864)(27). Đôi sau được viết vào năm Đinh Mão thời Bảo Đại (1927)(28). Trong Việt sử diễn nghĩa tứ tự ca do Hồng Nhung và Hồng Thiết (con của Tuy Lý Vương) diễn dịch cũng có chữ này ở đoạn “Ông Ðinh Bộ Lĩnh, người xứ Hoa Lư, hiệu rằng Vạn Thắng, trí dũng có dư, dẹp yên các trấn, sắp đặt trăm quan, nước xưng Cồ Việt渃稱瞿越(29), đô đóng Trường An” (249-256). Tức là cả 3 văn bản ghi “Cồ Việt” đều là các văn bản rất muộn vào đời Nguyễn sau ĐVSKTT hai trăm năm.

Mặt khác, chúng tôi cho rằng chữ “Cồ Việt” ở đây chỉ là cách gọi tắt của “Đại Cồ Việt” dưới áp lực của thể loại văn vần. Câu đối là thể loại văn học hạn chế người sáng tác đến từng âm tiết, ngoài ra còn phải kể đến luật bằng trắc. Thể loại thơ bốn chữ cũng vậy, 1 câu thơ 4 chữ thật khó có thể đặt một danh từ riêng chiếm đến 3 âm tiết. Với cấu trúc “trắc – bằng – trắc”, ba chữ “Đại Cồ Việt” nếu đưa vào bất cứ một câu văn vần nào thì cũng sẽ dễ gây nên sự thất luật. Điều này có thể thấy rõ, đế hiệu Đinh Bộ Lĩnh tự xưng là “Vạn Thắng vương” cũng bị cắt mất một âm tiết. Có người không biết “Vạn Thắng” là đế hiệu nên không viết hoa mà phiên âm và hiểu theo nghĩa là “muôn chiến thắng”(30) và không chua gì cả. Một chứng cứ nữa vể việc “Đại Cồ Việt” bị cắt mất một âm tiết trong văn bản văn vần. Đó là đôi câu thơ “Nước xưng ĐẠI CỒ nối trời, xây thành lập lũy trong ngoài sửa sang” (câu 4102 và câu 4103) trong sách Thiên Nam ngữ lục(31). Có thể thấy, có 3 văn bản ghi quốc hiệu là “Cồ Việt”, 1 văn bản ghi quốc hiệu là “Đại Cồ”. Và cả 4 văn bản này đều thuộc về văn vần (xin xem bảng tra ở dưới). Trong khi đó ĐẠI CỒ VIỆT luôn luôn được ghi một cách trọn vẹn trong các văn bản lịch sử bằng văn xuôi (9 văn bản). Cụ thể như sau:

Đinh viết Đại Cồ Việt, đô Hoa Lư (Dư địa chí)(33)

“Mậu Thìn, năm thứ 1 [968] (Tống Khai Bảo năm thứ 1). Vua lên ngôi, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt… bầy tôi dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế”(34).

“Mậu Thìn, năm thứ 1 [968] (Tống Thái Tổ Khai Bảo năm thứ 1). Vua buổi đầu lên ngôi. Đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt… các bề tôi dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế”(36).

“Làm kẻ chợ ở động Hoa Lư, nay là Trường Yên phủ, dựng hiệu nước là nước Đại Cồ Việt”(37)

“Mậu Thìn (968), Đinh Tiên Hoàng năm thứ 1 (Tống, Thái tổ, năm Khai Bảo thứ 1). Vạn Thắng vương lên ngôi Hoàng đế, quốc hiệu là Đại Cồ Việt (không rõ tháng nào)”(38)

Một mai về với Trần công/ hiệu xưng Vạn Thắng anh hùng ai qua(39)

“Mậu Thìn, năm thứ 1 [968] (Tống Thái Tổ Khai Bảo năm thứ 1). Vạn Thắng Vương lên ngôi hoàng đế. Quốc hiệu là Đại Cồ Việt… Quần thần dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế”(40).

“Ông Ðinh Bộ Lĩnh, Người xứ Hoa Lư, Hiệu rằng Vạn Thắng, Trí dũng có dư. Dẹp yên các trấn, Sắp đặt trăm quan, Nước xưng Cồ Việt, Đô đóng Trường An” (249-256)(42).

Về văn bản học, chưa từng có một văn bản sử học (bằng văn xuôi: 9 vb) nào ghi nhận cách viết [đại + cồ] là một chữ Nôm. Hơn nữa, các văn bản xuất hiện vào thời Đinh đến nay hầu như không còn gì. Hiện, chỉ có một số văn bản rất đáng chú ý; đó là 40 cột kinh tràng hiện đang nằm trong kho hiện vật của Bảo tàng Ninh Bình. Tiếc rằng, chúng tôi, dù đã cố gắng, nhưng không thể nào tiếp cận được những tư liệu đặc biệt quý hiếm này. Chỉ có nghiên cứu các văn bản Hán văn trên các kinh tràng này mới may ra tìm được cách ghi quốc hiệu chính xác. Trong số 40 kinh tràng trên, có 2 kinh tràng đã từng được Hà Văn Tấn nghiên cứu(45). Thế nhưng, cả hai là các văn bản chép kinh trì chú của phái Mật tông, nên không có thông tin nào. Tóm lại, tất cả các văn bản sử học (văn xuôi, trong đó ĐVSKTT vẫn là văn bản sớm nhất, có giá trị nhất, tính khả tín cao nhất) đều ghi quốc hiệu là “大瞿越”. Tất cả các văn bản văn vần đều ghi thiếu một âm tiết do hạn định của thể loại đối với số lượng âm tiết và luật bằng trắc.

Điều chúng tôi muốn nói ở đây là những nghiên cứu sẽ khó có thể đạt được kết quả khi người thực hiện cố gắng chối từ sự hiện hữu của tư liệu. Điều đó sẽ dẫn đến hành động sử dụng tất cả các dữ liệu để chứng minh cho một định đề có sẵn. Lập luận cho rằng ĐVSKTT và các văn bản lịch sử khác viết sai là một thao tác “bạt bản tắc nguyên”, phủ nhận giá trị thực tại, khách quan của các ngành khoa học cơ bản nhất trong các khoa học về xã hội nhân văn, đó là khảo cổ học, văn bản học, ngôn ngữ học. Mặt khác, chúng ta cũng khó có thể tưởng tượng ra rằng, sẽ như thế nào nếu toàn bộ các sử gia của một cộng đồng dân tộc cũng như “kí ức dân gian” quên mất, hoặc là nhớ nhầm/ viết nhầm quốc hiệu đầu tiên của mình? Như trên, bài viết đã phản bác lại giả thuyết coi CỒ là một từ Việt cổ và giả thuyết coi ĐẠI CỒ là một chữ Nôm. Dưới đây, bài viết muốn đề cập đến các giả thuyết coi CỒ là một chữ Hán.

III.Các giả thuyết coi CỒ là một chữ Hán

Trong những người quan tâm nghiên cứu về quốc hiệu “Đại Cồ Việt”, Nguyễn Khắc Kham, Kỳ Quảng Mưu chủ trương cho rằng “Đại Cồ Việt” là một từ thuần Hán. Cả hai ông đều đưa ra những kiến giải riêng hữu lý. Bài viết giới thiệu giả thuyết của hai học giả trên nhằm góp phần lý giải về nội dung ngữ nghĩa của ba chữ “Đại Cồ Việt”- quốc hiệu đầu tiên của nước ta trong thời kỳ đầu của độc lập tự chủ.

3.1. Giả thuyết của Kỳ Quảng Mưu

Trong bài Giải thích về tên nước Đại Cồ Việt – và phân tích ngữ nghĩa bài “Vương lang quy” của Ngô Chân Lưu đăng trên tạp chí Đông Nam Á tung hoành, tác giả Kỳ Quảng Mưu (khoa Đông Phương ngữ của Lạc Dương Ngoại quốc ngữ Học viện, Trung Quốc), cho rằng Đinh Bộ Lĩnh định quốc hiệu là Đại Cồ Việt hẳn là phải có dụng ý của riêng mình. Trước tiên, ông để ý đến hai thành tố quan trọng và khó hiểu nhất đó là hai chữ “Cồ Việt”. Đó là một danh hiệu để khu biệt với các dân tộc và quốc gia khác thuộc vùng Bách Việt xưa. Đinh Bộ Lĩnh không đặt tên nước là Nam Việt quốc để tránh trùng tên nước của Việt Đà. Ông cũng không đặt tên nước là Đại Việt vì nó cũng trùng với quốc hiệu Đại Việt của Lý Thánh Tông (Trung Quốc). Bởi Lý Thánh Tông đã xưng đế vào năm 917 tại Quảng Châu. định quốc hiệu là Đại Việt, sau đổi thành “Hán”, sử sách gọi là Nam Hán. Nhưng năm 972, Nam Hán bị Tống thôn tính. Cho nên Đinh Bộ Lĩnh đã tránh dùng lại quốc hiệu cũ của nước láng giềng và đặt tên nước là Đại Cồ Việt (46).

Kỳ Quảng Mưu cho rằng, từ thực tế lịch sử, Đinh Bộ Lĩnh đã ứng thuận lòng dân, dẹp bỏ loạn lạc, thống nhất lãnh thổ, đưa chính quyền về một mối. Nhưng nước mới được lập, vừa qua cơn chiến loạn, ông chắc hẳn đã đối mặt với rất nhiều khó khăn, luôn luôn phải răn dè bản thân. Cho nên, đặt niên hiệu “Thái Bình” là để an dân. Đặt quốc hiệu “Đại Cồ Quốc” là để tự răn mình, răn rằng: “Mới có niềm vui của sự thành công thì phải đề cao lòng răn dè sợ sệt, mắt phải nhìn cho xa”(47).

Như thế, Kỳ Quảng Mưu khẳng định quốc hiệu “Đại Cồ Việt” là một danh từ thuần Hán, trong đó chữ CỒ cũng mang ngữ nghĩa của tiếng Hán. Trong đó ông muốn hiểu, chữ CỒ mang đủ cả ba nghĩa như ông đã tra cứu qua Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh: “瞿Cồ: 1.sức trông xa của chim ưng; 2.nhìn chú vào một chỗ; 3.sợ hãi.”

Chúng tôi thiết nghĩ, coi “Đại Cồ Việt” là một cụm từ thuần Hán là một hướng lý giải đúng. Tuy nhiên, việc lấy nghĩa cơ bản của chữ CỒ để lý giải cho ba chữ này là giả thuyết cần phải bàn lại.

3.2. Các giả thuyết của Nguyễn Khắc Kham

Giống như Kỳ Quảng Mưu và các nhà nghiên cứu khác, Nguyễn Khắc Kham là người trăn trở khá nhiều về quốc hiệu Đại Cồ Việt. Năm 1974, ông cũng từng coi CỒ là một chữ Nôm(48), sau ông đã từ bỏ giả thuyết này bằng cách cùng một lúc đưa ra hai giả thuyết khác vào năm 1978.

Giả thuyết đầu tiên ông đưa ra là một cách giải thích thú vị. Ông nói:“Cồ Việt” có lẽ là cách đọc của người Việt cổ cho hai chữ “Âu Việt 甌越”. Chữ Âu có hai âm đọc ở tiếng Hán cổ là *U và *KU, … có lẽ triều Đinh đã sử dụng chữ Hán “cù” thay cho “Âu” để tránh nhầm lẫn.”(49) Giả thuyết này có hai điểm yếu:

1. Chứng minh “Cù” là một cách đọc/ cách ghi âm khác của ngữ âm tiếng Việt Mường về chữ “Âu” là một cách lý giải khá hóc hiểm và kỳ khu.

2. Dùng một từ đồng âm, nhưng khác về tự dạng để “tránh nhầm lẫn” rằng nước “Âu Việt” của mình (Đinh Bộ Lĩnh) khác với nước “Âu Việt” thời cổ cũng là một giả thuyết khó có thể xảy ra nữa. Nếu đã đề cao truyền thống dân tộc thì dùng cả âm, cả chữ, cả nghĩa; chứ sao phải thay đổi phức tạp như vậy?

Ông cũng đưa ra một giả thuyết khác, rằng: “Cồ Đàm瞿曇là họ của Phật, dịch từ chữ Gautama trong tiếng Sanskrit. Phật giáo phát triển mạnh ở Việt Nam vào triều Đinh, lực lượng tăng lữ giữ vị trí quan trọng trong triều đình, ông có hướng cho rằng Đại Cồ Việt có lẽ nghĩa là “nước Việt – nước Phật giáo lớn. Ở đây, ta cũng nhắc đến chi tiết một trong năm Hoàng hậu của Đinh Tiên Hoàng có tên là Cồ Quốc 瞿國(Nước Phật)”(50). Chính giả thuyết này học giả J. de Francis(51) cũng đã từng đưa ra bởi ông này cũng cho rằng Phật giáo thời Đinh hẳn là quốc giáo. Nhân dây xin mượn lời của Nguyễn Lang để minh chứng: “Tiếp đến, Ðinh Tiên Hoàng dẹp 12 sứ quân, lập ra nước Ðại Cồ Việt độc lập. Mật Giáo và Thiền là hai hệ thống Phật giáo hưng thịnh nhất của thời đại. Chính trong thế kỷ này mà những trụ đá (sic) về Mật Tông được tạo dựng ở Hoa Lư. Chính trong thế kỷ này mà đạo Phật tích cực đóng góp vào việc dựng nước. Năm 971, vua Ðinh Tiên Hoàng định giai cấp cho tăng sĩ và ban chức tăng thống cho Ngô Chân Lưu của thiền phái Vô Ngôn Thông, cho ông hiệu Khuông Việt Thái Sư, chính thức nhận Phật giáo làm nguyên tắc chỉ đạo tâm linh cho chính sự. Cũng chính trong thế kỷ này mà vua Lê Ðại Hành mời thiền sư Pháp Thuận và thiền sư Vạn Hạnh của thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi làm cố vấn chính sự. Các thiền sư Khuông Việt, Pháp Thuận và Vạn Hạnh cũng đã tiếp tục giúp vua Lý Thái Tổ trong thế kỷ kế tiếp”(52).

Giả thuyết này của J. de Francis và Nguyễn Khắc Kham hoàn toàn hợp lý với những gì chúng ta biết từ trước đến này về nhà Đinh. Các di vật, các văn bản từ thời Đinh còn lại đến nay hầu như không còn gì ngoài mấy cột kinh tràng tại Hoa Lư. Di vật có chữ viết khai quật được khoảng 40 chiếc(53). Và nội dung được khắc trên đó, theo sự nghiên cứu của Hà Văn Tấn, đều là các văn bản trì chú của Mật Tông. Có thể đoán định rằng, Đại Cồ Việt tuy mới tách ra khỏi nước lớn, nhưng Phật giáo vẫn được coi như là một quốc giáo, y như nhà Đường trước đó. Điều này có thể thấy sự đồng nhất về phong cách kiến trúc giữa văn hóa Đại Cồ Việt và văn hóa Đường. Từ chùa Nhất Trụ (chùa Một Cột, tại Hoa Lư, Hà Nội), từ Tháp Nhạn (Nghệ An) đến các kinh tràng…, từ xu hướng ngôn ngữ, phong cách văn chương chữ Hán cho đến hệ kiến trúc thượng tầng. Có thể nói, sự đột khởi của văn hóa Đinh – Lý – Trần, sự xuất hiện đầu tiên và lập tức là đỉnh cao, chỉ có thể đặt trong bối cảnh văn hóa Đại Cồ Việt – Đại Việt kế thừa từ văn hóa đời Đường, trên nền tảng văn hóa Đường. Phật giáo chắc hẳn phải là quốc giáo vào thời Đinh. Cho nên, lấy họ Phật để đặt quốc hiệu là một giả thuyết rất có thể xảy ra trên thực tế.

IV. Khảo về chữ CỒ trong “Đại Cồ Việt”

Về âm đọc của chữ “瞿”. Trung văn đại từ điển(54)ghi nhận chữ “瞿” có 5 âm đọc như sau:

Quảng vận【廣韻】ghi cửu ngộ thiết (九遇切), Tập vận【集韻】và Vận hội【韻會】đều ghi câu ngộ thiết (俱遇切),âm cú ngộ 音句遇, khứ thanh, vậy chữ này được đọc là CỐ. Âm đọc này có 7 nét nghĩa.

Quảng vận【廣韻】ghi kỳ câu thiết (其俱切), Tập vận【集韻】và Vận hội【韻會】đều ghi quyền câu thiết (權俱切), âm cù ngu thiết (衢虞切) (bình thanh), vậy phương án đọc thứ haicó thể cho ta hai âm là CẦU, CÙ. Âm đọc này có 15 nét nghĩa.

Tập vận【集韻】ghi kí lực thiết (記力切), âm cức, chức (亟,職), nhập thanh, vậy chữ này có cách đọc thứ 3 là CỰC. Với nghĩa là vẻ buồn rười rượi (cực cực)

Ngoài ra, Trung văn đại từ điển còn đưa ra cách đọc khá đặc biệt nữa là CỦ (âm như chữ củ 矩). Với nghĩa là quy củ (đạo hiệt củ của Nho gia).

Theo các vận thư, chữ “瞿” có thể đọc theo 5 âm: CỐ, CẦU, CÙ, CỰC, CỦ. Như thế, cứ theo mặt chữ mà đọc theo âm và theo nghĩa, ta sẽ có một bảng tổng hợp tất cả các khả năng có thể xảy ra trên lý thuyết cho các từ大瞿越. Cụ thể như sau: 1. ĐẠI CỐ VIỆT: Nước Việt lớn như bày nhạn tụ tập. 2. ĐẠI CỐ VIỆT: Nước Việt lớn có vẻ nhìn (hay tầm nhìn) như chim nhạn. 3. ĐẠI CỒ VIỆT: nước Việt lớn có ánh nhìn sợ hãi. 4. ĐẠI CỐ VIỆT: nước Việt lớn như chim sẻ quay đầu. 5. ĐẠI CỐ VIỆT: nước Việt lớn (nhưng) run sợ (trước Thiên triều) như ý kiến của Kỳ Quảng Mưu. 6. ĐẠI CỐ VIỆT: nước Việt lớn (biết) tiết kiệm. 7. ĐẠI CỐ VIỆT: nước Việt lớn sợ hãi. 8. ĐẠI CẦU/ CÙ VIỆT: nước Việt lớn có ánh mắt trừng trừng, láo liên(55). 9. ĐẠI CẦU/ CÙ VIỆT: nước Việt lớn vừa chạy vừa sợ hãi. 10. ĐẠI CẦU/ CÙ VIỆT: nước Việt lớn (như) gai táo. 11. ĐẠI CẦU/ CÙ VIỆT: nước Việt lớn có cái mào trên đầu. 12. ĐẠI CẦU/ CÙ VIỆT: nước Việt lớn (đẹp) như hoa bách hợp. 13. ĐẠI CẦU/ CÙ VIỆT: nước Việt lớn (có) binh khí (như một giả thuyết khác của Nguyễn Anh Huy). 14. ĐẠI CẦU/ CÙ VIỆT: nước Việt lớn như ngã tư đường.15. ĐẠI CẦU/ CÙ VIỆT: nước Việt lớn, gầy gò. 16. ĐẠI CẦU/ CÙ VIỆT: nước Việt lớn (có nhiều) cỏ cù. 17. ĐẠI CỤ VIỆT: nước Việt lớn buồn bã như khi đang có tang. 18. ĐẠI CỦ VIỆT: nước Việt lớn có quy củ. (18 cách dịch này chưa kể đến mối quan hệ ngữ pháp của chữ ĐẠI trong cả ngữ danh từ, cũng chưa kể đến 5 cách dùng của chữ CÙ để ghi danh từ riêng.)

Chỉ xét trên tiêu chí NGỮ NGHĨA, thì ai cũng thấy các tác giả khi coi CỒ là một từ Hán đều thực hiện thao tác chọn nghĩa của từ này thông qua tra cứu từ điển, xem nghĩa nào “hợp” nhất. Tiêu chí của sự hợp lý ấy là nghĩa phải đẹp, mang tầm vóc của quốc gia, thể hiện tâm tư, ý hướng, khát vọng của cả dân tộc. Giả thiết của Kì Quảng Mưu khó chấp nhận được cũng bởi vì không thể xảy ra xét trên hai tiêu chí âm và nghĩa, nhất là sự suy luận về nghĩa của ông lại ảnh hưởng theo nhãn quan của con dân nước lớn. Giả thuyết của Lê Văn Siêu (1964) coi“瞿” thông với chữ “衢”, rằng: “Đại Cồ Việt có nghĩa là nước Việt rộng lớn trông suốt cả bốn cõi hay tám cõi (bát hoang) theo lối hiểu ngày xưa, ấy là cái cao vọng của người không những muốn thống trị mà còn muốn bành trướng thế lực ra tám cõi nữa”(56). Hiểu như Lê Văn Siêu thì cũng theo tinh thần dân tộc mà suy diễn. Nói như ngôn ngữ mà học sinh Việt Nam hiện nay được dạy thì Đinh Bộ Lĩnh đặt tên nước là Đại Cù Việt vì ông đã nhìn thấy mảnh đất này nằm ở “ngã tư đường giao thông quốc tế”. Giả thuyết khác của Nguyễn Anh Huy cho CỒ nghĩa là loại binh khí cổ của nước Âu Lạc thì quả cũng chỉ là một cách “gồng mình” thay cho lịch sử. Có thể coi giả thuyết này là sản phẩm lãng mạn hóa bởi tinh thần chauvinisme theo trường phái Kim Định.

4.2. Vì sao âm CỒ không có trong vận thư từ điển Trung Hoa?

Chỉ xét riêng âm đọc thôi, tất cả các khả năng trên đây đều bị loại bỏ. Chữ “瞿” chưa từng được các từ điển Trung Quốc ghi nhận cách đọc CỒ. Thế nhưng, không một ai trong các học giả trên bác bỏ âm đọc CỒ của chữ Hán, thay vào đó là công nhận CỒ chính thức hơn là âm đọc CÙ. Lý do tại sao? Bởi, ai cũng đọc theo cái “kí ức dân gian”, cái “trí nhớ dân gian” mà bài viết đã nhắc đến ở trên. Liệu hàng vạn lớp người của một dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử có thể đọc sai hay đọc nhầm quốc hiệu đầu tiên của mình? Liệu hàng trăm sử gia thời trung đại, liệu hàng ngàn nhà nho trong quá khứ đều đọc sai ba chữ này? Kể cả một số học giả gần đây đặt ra những giả thuyết lý thú đi thế nào chăng nữa thì cái âm CỒ vẫn là một dữ liệu bất biến, không thể thay đổi. CỒ là một hằng số. Mọi suy luận, mọi xét đoán đều phải dựa vào âm này. Thế mà cái âm đọc ấy lại không hề được ghi nhận theo các vận thư, từ điển Trung Hoa. Hẳn là có uẩn khúc gì ở đây?

Uẩn khúc ấy chính là chữ “瞿” được dùng để phiên âm một âm tiết của tiếng Phạn, âm phiên này đã được đọc chệch đi so với âm Hán Việt của nó. Đây chính là điểm mà J. de Francis, Nguyễn Khắc Kham và An Chi(57) đã đề cập đến. Chữ “瞿” với âm đọc CÙ đã được dùng để ghi âm “Go” hay “Gau” trong họ của đức Phật Gautama. Sự tương ứng thủy âm C/ G chắc không phải bàn luận nữa. Sự tương ứng giữa nguyên âm (phần vần của chữ) U với O hay AU cũng là hiển nhiên. Vì thế, cái âm CỒ hẳn là một hợp âm được hình thành trong quá trình dịch âm từ tiếng Phạn sang tiếng Hán rồi từ Hán sang tiếng Hán Việt. Âm CỒ hẳn là sản phẩm của Phật giáo đã được Việt hóa. Kiểm tra trong Từ điển Phật học Hán Việt thì thấy chữ “瞿” dùng để ghi 23 từ có ÂM đọc là CỒ (có liên quan đến Phật) như: cồ di, cồ chỉ la, cồ đàm di, cồ đáp ma…(58) và không một lần nào được dùng để ghi âm CÙ. Tuy nhiên, các học giả Trương Vĩnh Kí (1875)(59), L’Abbé Adr. Launay (1884)(60), Alfred Schreiner (1906)(61), Colonel E. Diguet (1908)(62), Pierre Rey(1913)(63) đều ghi nhận đọc là “CÙ”. Điều đáng nói ở đây là các học giả này đều là người nước ngoài, cho nên khi gặp phải một chữ Hán đã được Việt hóa khác đi, thì tất cả lại đều cứ theo vận thư từ điển mà phiên thành CÙ. Trương Vĩnh Ký tuy là người bản địa, nhưng lại là một sản phẩm hoàn hảo của Tây học, hoặc giả đó chỉlà một phút lơ đãng của học giả uyên bác này. Trái ngược lại, tất các học giả bản địa [trừ Gustave Dumoutier (1894)(64)] vẫn phiên là CỒ như Phan Kế Bính (1912)(65), Trần Trọng Kim (1919)(66), các học giả trong Hội Khai trí Tiến đức (1931)(67), Đào Duy Anh (1932)(68), Hà Văn Tấn (1960)(69), Tạ Quang Phát (1971), Trần Quốc Vượng (1960(70), 2000(71)), Vũ Văn Kính (2002)(72)… đó hẳn dựa trên sự “truyền thừa ký ức lịch sử” trong cộng đồng người Việt! Cho đến nay, các sách giáo khoa trên toàn quốc vẫn ghi ĐẠI CỒ VIỆT. Cho nên, mới nói cái “ký ức dân gian” đã truyền thừa âm đọc CỒ từ xưa cho đến tận ngày nay, cũng y như chữ貉(trong Lạc Việt) được đọc là lạc (mà không đọc là hạc theo vận thư). Đào Duy Anh cũng theo “ký ức dân gian” ấy mà đọc là CỒ, trong cuốn từ điển Hán Việt! Đọc chữ Hán theo âm Hán Việt Việt hóa là hiện tượng gặp rất nhiều trong Hán Việt tự điển của Thiều Chửu, cũng như các sách vở của những người cổ học mà tri thức được hình thành từ quá trình truyền thừa, theo lối học ông đồ xưa(73). Cho nên, có thể nhận định rằng âm CỒ là âm phổ thông của “瞿” trong 大瞿越. Và CỒ (với âm đọc Việt hóa như vậy) rất có khả năng dùng để chỉ đức Đại Cồ Đàm.

4.3. CỒ – hiện tượng đơn tiết hóa

Tuy nhiên, giả thuyết coi CỒ là CỒ ĐÀM trước nay bị phản bác ở điểm, các từ điển Trung Hoa không ghi nhận “瞿” đứng độc lập là một dạng viết tắt, hay rút gọn của Cồ Đàm. Nhưng có điều, xu hướng “đơn tiết hóa” các danh từ riêng trong tiếng Hán cũng như tiếng Việt (hai ngôn ngữ đơn lập đơn tiết) là một hiện thực ngôn ngữ thường gặp. Ví dụ hiển minh nhất cũng chính là BỤT và PHẬT, đều là hai chữ (phiên âm từ hai giai đoạn lịch sử khác nhau) rút gọn từ BỤT ĐÀ, PHẬT ĐÀ(74). Mà hai chữ này vốn là để ghi một trong mười danh hiệu của Phật, nguyên tiếng Sanskrit là Buddha(75). Một cứ liệu thực địa khác hiện tồn trong đời sống của người Việt, chùa Bổ Đà(một ngôi chùa tổ tương truyền nơi Phật xuất hiện, thuộc huyện Việt Yên, Bắc Giang) vẫn được nhân dân gọi tắt là chùa Bổ. Sư cụ Thích Quảng Luân trụ trì chùa trong suốt thế kỷ XX cũng được gọi tắt là cụ BỔ. Cũng cùng tỉnh Bắc Giang, chùa Đức La (còn gọi là chùa tổ Vĩnh Nghiêm, nơi trữ ván kinh cổ) cũng được mấy cánh xe ôm và các bà chạy chợ gọi tắt là chùa LA.

Đến như hai chữ “Thích Ca” vốn là “tên gọi tắt củ

- Trò chuyện: Bấm vào "Chat với nhau"

- Gửi câu hỏi: Bấm vào "Gửi câu hỏi"

- Thành viên nên tự đưa ra giải đáp/câu trả lời của mình khi đặt câu hỏi

- Yêu cầu thành viên gõ tiếng Việt có dấu

- Vi phạm nội quy sẽ bị ban nick. Mời xem